249- CÁCH ĐỂ BIẾT TU TẬP CÓ KẾT QUẢ
(36:10) Tu sinh 1: Thầy làm
sao mình biết sau một năm tu tập kết quả đạt được hay không đạt được?
Trưởng
lão: À, cái đó con muốn biết, thật sự ra 1 tháng con cũng đã
thấy kết quả rồi. Tại sao con biết không?
Bây giờ,
thí dụ như bây giờ Thầy nói đơn giản thôi. Bây giờ, con hít vô biết hít vô, thở
ra biết thở ra. Phải không, mà con tu 10 phút thôi. À, mới đầu con tu con thấy
năm, mười niệm. Rồi có bữa, có thời thì con tu không có niệm, mà có thời thì
con tu có niệm xen vô. Phải không? Nhưng mà con tu suốt một tháng con nghiệm
lại. Nay thấy cái niệm này nó bớt rồi, mà coi cái thời nào nó cũng đều đều rồi,
nó không có lúc được mà lúc không. Thì đó là tiến bộ. Con thấy không?
(36:54) Còn về phần tâm con đó, con thấy hôm
nay mình thích không có muốn đi nói chuyện ai nữa hết. Mà thấy nó vui trong cái
cảnh mình sống một mình, không có buồn. Còn mọi lần nó buồn, ai mà gọi mình cái
mình thích lắm. Thì mình nghiệm qua cái tâm con, hôm nay con lại nghiệm nữa,
con lại thấy nữa. Tới cái giờ ăn này, nó thấy cái món ăn này nó thích mà bây
giờ nó không cần. Từ lần lượt, con nhìn qua cái chỗ, rồi cái buồn ngủ con thấy
nó giảm lần. Đó là cái sự tiến bộ của con trong một tháng, nó giảm ít.
Nhưng một
năm con nhìn lại coi, nó tiến ghê lắm! Kể như là cái người mới vào tu mà nhìn
con là sợ làm không kịp. Trời ơi, cái ông này ổng tu giỏi quá ta! Cũng như bây
giờ mấy con nhìn thầy Chơn Thành mà thức được tới giờ phút đó, trời! Ông này
ổng tu giỏi quá, thức dữ quá! Phải không?
Nhưng mà
sự thật ra người ta phải có cái thời gian người ta chiến đấu với hôn trầm,
nhưng mà người ta ở góc độ người ta phá hôn trầm được. Còn cái góc độ người ta
xả tâm người ta chưa được, người ta còn. Khi mà người ta được cái này rồi người
ta lần lượt tiếp tục cái này người ta xả.
(37:56) Còn có người người ta xả tâm trước mà
cái hôn trầm người ta còn, cho nên vì vậy mà cái giờ giấc của người ta nó bị
đánh gục tới, gục lui đủ thứ, nó còn hôn trầm, thùy miên. Con hiểu không?
Còn cái
ông này ổng đánh được hôn trầm, thùy miên rồi. Cho nên ổng ngồi được và ổng
tỉnh, ổng thức nhiều giờ hơn được. Còn mình chưa có đánh được hôn trầm, thùy
miên mà: “cái ông này
thức tui cũng ráng thức”, không ngờ là nó đập mình nhẹp hết. Con
hiểu chưa? Cho nên đừng bắt chước người ta.
Còn cái
người mà người ta xả tâm người ta như cục đất rồi, mình đừng nói sao ông này
làm được dễ dàng quá? Mà tui cũng sao vậy? Không phải, tại cái ông này ổng trải
qua cái thời gian tu ba năm, hai năm rồi, ổng xả nhiều rồi. Tức là ổng tu Định
Vô Lậu, cái người mà xả tâm là tu Định Vô Lậu. Trước cái hoàn cảnh, cái sự việc
xảy ra. Hoặc là tâm niệm gì đều là họ có cái đề mục họ thông suốt hết rồi, họ
xả hết. Cái người tu Định Vô Lậu là họ xả tâm, họ bất động tâm.
Còn cái
người mà tu cái pháp để ngăn, như Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở đều
là pháp ngăn. Thì cái người đó người ta đã tập về cái phương pháp đó mà cái
Định Vô Lậu người ta ít tập. Cho nên thầy Chơn Thành bây giờ thầy phải trở về
Định Vô Lậu thầy tu nhiều hơn. Cho nên bây giờ Định Vô Lậu thường đặt cái đề
tài thầy quán xét.
(39:08) Con thấy không? Cho nên vì vậy cứ mỗi
một tháng con nghiệm lại từ đầu chí cuối coi thử cái gì mình tu kết quả hay
không? Rồi cái hôn trầm, thùy miên có lui chưa? Mà nó chưa lui thì mình phải
tập nhiều hơn để cho nó phá, bởi vì cái đó nó đang là đối tượng của mình. Còn
cái vọng tưởng mà nó nhiều thì mình phải tập cái pháp nào? Phải hỏi rõ coi pháp
nào. Muốn hàng phục nó mà không bị ức chế. Hàng phục được nó, ly được nó mà
không có bị ức chế là Định Vô Lậu. Người ta sẽ dạy mình Định Vô Lậu.
Còn bây
giờ hàng phục nó mà ức chế nó mà bằng cách là nhiếp tâm không có vọng tưởng.
Thì cái này, nhiếp tâm và an trú ở chỗ không có vọng tưởng đó chỉ đối với bệnh
mà thôi. Đối với cái bệnh thân của mình thôi, chứ nó không có đối với cái tâm,
vì nó phần nhiều là nó ức chế. Ức chế để chúng ta vào đó mà chúng ta đẩy lui
cái cảm thọ. Con hiểu không? Cái pháp nào nó ra pháp nấy.
Còn bây
giờ Định Vô Lậu nó khai triển tri kiến, cho nên cái gì tác động nó không được.
Nó thanh thản, an lạc, vô sự, không có làm cho nó phiền não được hết. Bị vì nó
bằng cái hiểu biết. Con hiểu, Định Vô Lậu mà. Cái tri kiến của nó nó trở thành
cái hiểu biết cho nên không có tác động. Và đồng thời không tác động thì con
ngồi lại tự nó bất động. Con không cần phải nhiếp tâm, cho nên con ngồi thanh
thản, an lạc, vô sự xuất hiện thanh thản, an lạc, vô sự nó không niệm gì hết.
Là Định Vô Lậu đó.
(40:28) Còn bây giờ mà con ngồi con thấy có
niệm niệm hoài mà con nhiếp tâm mà sao nó không được, con ráng cố gắng tập
trung thì đó là con tu để mà đối trị bệnh chứ không phải là tu để xả cái tâm
này đâu. Mặc dù nó không niệm, nhưng mà vì ức chế nó không niệm nhưng mà nó nằm
một đống ở trỏng. Phải hiểu pháp con, cái pháp nó có lợi ích chỗ nào, chỗ nào
mình phải hiểu rõ.
Cho nên
vì vậy đó, con cứ lượng, cứ một tháng qua là con xét nét lại hết. Rồi một cái
nữa, con sẽ thấy tiến bộ. Cũng như bây giờ con tập đi kinh hành, mới đầu con
tập đi thấy nó mệt nhọc mà thấy nó không ham, thấy cực. Nhưng mà thời gian một
tháng sau, hễ muốn đi kinh hành là thấy nó thích, nó muốn đi. Thì đó là tiến
bộ, nó có cái tinh tấn thì nó tiến bộ. Còn tu mà nó chán, nó làm biếng thì cái
đó là không có tiến bộ. Cho nên càng tu con thấy thể hiện ra cái tướng tiến bộ
của nó, rất rõ ràng.
Cho nên
nếu mà tiến bộ thì nó thực hiện ra Thất Giác Chi. Thất Giác Chi thì thí dụ như,
thường xuyên siêng năng mà trạch pháp là Trạch pháp giác chi. Con thích Trạch
pháp tác ý đó, con thích tác ý, tác ý. Mà hễ nó thích thì mới tác ý nhiều được.
Còn nó làm biếng, con tác ý rồi cái nó làm biếng nó cứ ngồi lỳ đó mà nó không
tác ý, thì đó là nó chưa có Trạch pháp giác chi đâu. Chớ nó hiện cái tướng
Trạch pháp giác chi, nó thường là nó Trạch pháp giác chi nó phấn khởi lắm, nó
muốn tác ý, tác ý cái này rồi tác ý cái kia, đó là Trạch pháp giác chi.
(42:12) Rồi khi mà con ngồi tu bất kỳ một cái
phương pháp nào hay đi kinh hành, mà nghe nó có cái vẻ khinh an. Khinh an nó
làm cho cái thân con nhẹ nhàng bước đi hay hoặc ngồi nghe nó thơi thới, nó
khinh an. Mà hễ có khinh an thì có Hỷ Giác Chi, tức là cái niềm vui, nó khởi ra
cái niềm vui con, niềm vui nó vui. Mà hễ nó vui thì nó thích lắm, nó thích tu
lắm! Mà nó thích tu đó là Tinh Tấn Giác Chi. Nó hiện ra cái tướng giác chi của
nó, nó lần lượt nó hiện ra. Nó hiện rõ ràng lắm con.
Cho nên
khi mà nói về kết quả thì mình xét nét mình tu, bữa này sao mình thích tu quá,
mình muốn đi hoài hay hoặc là mình muốn ngồi hoài, đó là Tinh Tấn Giác Chi nó
hiện. Mà nó hiện ra nó chưa thường xuyên, tại sao nó chưa thường xuyên mấy con
biết không? Tại vì mình tu chưa đồng bộ, nó còn có cái gì đó mà nó phải trở
lại. Chẳng hạn bây giờ đồng bộ, là khi mà con tu cái pháp này nó khinh an như
vậy, nó Hỷ Giác Chi như vậy, thì cái Định Vô Lậu nó là cái định cốt cán của nó.
Bởi vì mình tu để được giải thoát là vô lậu. Mà có cái Định Vô Lậu là cái định
này chính chứ không phải là những cái Định Niệm Hơi Thở là chính đâu, hay là đi
Chánh Niệm Tỉnh Giác là chính đâu. Mà chính cái Định Vô Lậu mới là chính!
(43:29) Dùng cái tri kiến mà suy tư nghĩ để mà
xả tất cả các ác pháp, các niệm ham muốn trong lòng của mình. Thí dụ giờ thấy
món ăn thì con quán bất tịnh, tức là đề tài bất tịnh của món ăn rồi thì đó là
Định Vô Lậu. Nó làm con không còn lậu hoặc nữa, Dục lậu, nó không còn Dục lậu
nữa.
Nó ba cái
lậu hoặc: Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu. Nó ba cái lậu hoặc, luôn luôn ba cái
lậu hoặc này nó tác động là cho tâm chúng ta động, không được bất động. Cho
nên, nói bất động tức là Bất Động Tâm Định, hay là Vô Tướng Tâm Định. Chứ bất
động là nó không có động cho mình dễ hiểu, chứ thật sự ra cái chỗ Bất Động Tâm
là cái chỗ Vô Tướng Tâm Định. Tức là, vô tướng đây là không phải không có
tướng, mà nó không có cái tướng Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu. Phải hiểu cái
nghĩa của nó.
Cho nên
nó không có cái Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu thì cái tâm nó bất động. Còn nó
có cái tướng này vô thì nó sẽ bị động. Bị động, cho nên có Dục lậu, Hữu lậu, Vô
minh lậu.
(44:29) Do cái chỗ đó mà mình xét nét mình thấy
nó muội lượt như thế nào mình biết. Bây giờ mọi lần mình thấy cái món này ngon,
món kia ngon mình thích ăn, cái món này dở mình không muốn ăn thì mình biết cái
tâm tham mình nó còn. Mà mình đến giờ ăn cái gì nó ăn cũng được, nó không còn
lưu ý cái nào ngon cái nào dở nữa. Thì đó là cái tâm tham nó ly, nó ly chứ nó
chưa diệt đâu; nó ly.
Còn cái
ngủ nó cũng vậy nó ly cái tham si nó thì nó cũng vậy, nó cũng giảm bớt đi. Nó
cũng không thấy, bây giờ thay vì giờ đó 9 giờ nó buồn ngủ mà nay 9 giờ nó chưa
buồn ngủ, thì biết là nó giảm. Còn nó nặng, nó nặng là nó làm cho mình uể oải,
mệt mỏi. Còn cái kia nó không có nặng thì nó không có uể oải, mệt mỏi nữa,
không có lười biếng nữa. mà nó ngủ nó vô thình lình đó, à nó vô thình lình, nó
lặng vô cái nó ngủ. Đó là nó giảm bớt những cái lười biếng đó, thì đó là mình
cũng giảm rồi. Con thấy không?
(45:23) Còn nó tới cái vô ký của nó là nó cũng
giảm nhiều rồi nó mới vô ký, nó ngồi im lặng vậy, nó đang tỉnh vậy cái nó giật
mình cái vậy thì nó đang cũng là dạng vô ký của nó tức là cái dạng từ hôn trầm,
thùy miên mà nó dần đi đến cái chỗ vô ký. Thì mình đã lui được cái hôn trầm,
thùy miên nó mới đến cái này. Thì như vậy là nhìn lại cái kết quả mình tu nó có
con.
Và đồng
thời, mình đừng có nghĩ rằng mình sẽ tu một ngày, hai ngày, ba ngày mình có Tứ
Thần Túc, không có đâu. Con phải có thời gian mấy con. Phải có thời gian mới có
Tứ Thần Túc mới được. Nghĩa là cái thời gian của mình tu chừng nào mà mình thấy
cái tâm thanh thản - an
lạc - vô sự của mình luôn luôn nó kéo dài từ giờ này đến giờ
khác mà không có một chướng ngại nào hết. Hễ còn có chướng ngại tác động vào
thân, thọ, tâm, pháp bốn chỗ này mà còn bị chướng ngại thì phải ở trên Tứ Chánh
Cần mà tu rồi. Còn cái này nó kéo dài hoài, nó từ một tiếng, hai tiếng, ba
tiếng thỉnh thoảng nó xẹt qua một chút xíu thôi thì mình mới dùng cái phương
pháp mình quét nó ra. Còn nó nhiều quá mình phải nằm ở trên Tứ Chánh Cần mà
quét, còn ở trên Tứ Niệm Xứ không đủ sức quét đâu.
(46:31) Do đó, mình phải biết, mình tu mình
thấy lát thì cái thân nó đau, nó tê, nó nhức; lát thì cái tâm nó niệm này; lát
thì hôn trầm tới. Rồi, những cái đó nó là chướng ngại hết rồi, vì vậy thì nên ở
trên pháp Tứ Chánh Cần mà tu tập. Vì trên Tứ Chánh Cần có bốn cái loại Định để
mà tu tập, cho nên mình biết bốn loại định này mình chưa có nhuần, mình chưa có
nhuần ở trên những cái loại định này cho nên cái mặt của nó nó mới tới lui như
thế này. Chứ nó nhuần rồi thì nó đã giảm rồi, nó không còn. Cho nên đi trên Tứ
Niệm Xứ thì hoàn toàn nó an trú trong an trú. Cái danh từ “an trú trong an trú”, đó
là mình an trú được trong cái sự an trú cho nên mới gọi là chân lý “thanh thản, an lạc, vô sự”,
cái hiện tiền của mặt nó hiện ra.
Còn cái
này mình giữ nó, mình hộ trì nó để nó lòi cái mặt nó ra. Nhưng nó bị ác pháp
tác động vô, tác động vô thân hay tâm nó cái nó mất đi. Buộc lòng mình phải
dùng cái pháp thì nó đâu còn có nó nữa. Cho nên dùng pháp để đẩy lui cái chướng
ngại đó ra. Mà khi chướng ngại nó ra vừa rồi mới có thanh thản có chút xíu hà,
thì nó..
HẾT BĂNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét