315- TỨ NIỆM XỨ CÂU HỮU VỚI CÁC PHÁP KHÁC
(58:19) Kính thưa Thầy! Nhân dịp sinh nhật
lần thứ bảy mươi tám, con xin kính chúc Thầy luôn được an lạc. Con cúi xin Thầy
thương tưởng tới các chúng sanh hữu duyên với chánh pháp, con hứa cố gắng tu
tập để đền đáp phần nào công ơn dạy bảo của Thầy. Con có vài thắc mắc sau đây
xin được Thầy giải đáp!
*Hỏi:* Tu tập Tứ Niệm
Xứ câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác là như thế nào? Thầy cho con những ví dụ cụ
thể”.
À, bây giờ đây là câu
hỏi thứ nhất: Tu tập Tứ Niệm Xứ câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác là như thế
nào?
Đáp: Nghĩa là bây giờ con ngồi tu tập Tứ Niệm
Xứ, tức là giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Bắt đầu bây giờ con thấy con bị
hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ. Do như vậy bây giờ con phải đứng dậy ngay liền,
con sẽ tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác trên bước đi của mình, đó là con câu hữu với
cái pháp đó để mà đối đầu với cái hôn trầm, thùy miên của con, dẹp sạch nó bằng
cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Bây giờ con câu hữu
với Tứ Niệm Xứ bằng phương pháp khác nữa, là pháp Thân Hành Niệm. Bây giờ con
không có buồn ngủ, không gì hết nhưng mà con biết rằng tới cái giờ đó mình sẽ
buồn ngủ, và mình hay bị buồn ngủ do đó con tập cái pháp Thân Hành Niệm. Con
tập cái pháp Thân Hành Niệm nó sẽ làm cho con tỉnh, không còn bị buồn ngủ nữa.
Tức là không có buồn ngủ đến, còn khi mà có buồn ngủ đến như câu hỏi của
con: “Câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác”, phải không? Thì do đó
buồn ngủ đến, nó có buồn ngủ, nghe nó muốn ngủ, chứ chưa có ngủ. Do đó, con
đứng dậy con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác thì đó
là con đã câu hữu, kết hợp với Tứ Niệm Xứ.
Tứ Niệm Xứ là pháp
chính còn Chánh Niệm Tỉnh Giác là pháp phụ. Mà pháp phụ, nhưng nó lại là cái
phương pháp để đẩy lui chướng ngại pháp là hôn trầm, thùy miên. Sau khi hôn
trầm thùy miên hết rồi, con tỉnh trở lại rồi nó không còn buồn ngủ nữa, thì con
ngồi lại tu Tứ Niệm Xứ như thường. Phải không, như vậy là con hiểu?
(01:00:30) Còn bây giờ, con muốn câu hữu với pháp
Thân Hành Niệm, là con biết rằng mình không có buồn ngủ, nhưng mình muốn mình
hay bị buồn ngủ, vì vậy mình phải tập cái pháp này để cho nó tỉnh đặng mình tu
Tứ Niệm Xứ cho nó trọn vẹn mà mình không bị buồn ngủ. Con hiểu không?
Cho nên cái pháp Thân
Hành Niệm con tu tập cho nó tỉnh táo hẳn hòi đàng hoàng, nó làm cho con thức
tỉnh, không có buồn ngủ nữa. Bây giờ con tỉnh rồi con mới tu Tứ Niệm Xứ, Ví dụ
chẳng hạn để cho con thấy rõ.
Trước khi tu Tứ Niệm
Xứ thì bắt đầu con tu một tiếng đồng hồ, hai tiếng đồng hồ Thân Hành Niệm đi
rồi con ngồi lại Tứ Niệm Xứ thì nó không bị buồn ngủ, con hiểu không? Đó! Như
vậy là câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là câu thứ nhất.
(01:01:16) - *Hỏi:* Tu tập Tứ Niệm Xứ câu
hữu với Định Vô Lậu như thế nào? Thầy cho con những ví dụ Định Vô Lậu.
Đáp: À! Bây giờ mấy con thấy đang giữ tâm
thanh thản, an lạc, vô sự nè, bỗng dưng có một cái niệm khởi ra, nếu mà có niệm
thì nó làm cho động cái tâm rồi, cho nên nó mất cái trạng thái thanh thản, an
lạc, vô sự chứ gì? Cho nên vì vậy chữ câu hữu có nghĩa là mình sử dụng cái Định
Vô Lậu là tại vì cái niệm đó, mình tác ý bảo cái niệm đó một lần hai lần mà
thấy sao nó không đi, nó cứ tới lui hoài. “À! Được rồi mày tới lui, tao sẽ áp
dụng định Vô Lậu, tức là tao câu hữu với Định Vô Lậu là mày sẽ đi mất chứ không
còn ở đây được”. Phải không?
Còn nếu mà con tác ý,
con dùng cái pháp Như Lý Tác Ý, con thấy một cái niệm khởi ra, con tác ý. Ví dụ
như cái niệm đó là Ái Kiết Sử, nó nhớ nhà con, nó nhớ mấy đứa cháu này kia đó,
nó khởi ra cái niệm đó. Thì bắt đầu con tác ý: “ Ái Kiết Sử, mày đi chứ
mày không có vô đây được!”. Con biết cái niệm đó là thuộc về Ái Kiết Sử, vì
nó là thương nhớ gia đình mà, thì con biết nó là Ái Kiết Sử.
Hoặc là nó nhớ bạn bè
của nó, làm ăn hay hoặc là đi làm gì đó, là nó nhớ đến người bạn nó, cũng là Ái
Kiết Sử. Thì do đó con tác ý: “Đây là ái kiết sử, mày đi! Ở chỗ này là thanh
thản, an lạc, vô sự”. Thì con nhắc tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì thấy
không tới nữa. Nhưng mà rồi một chút nó tới nữa, thì con nói không được, tác ý
kiểu này không được, phải câu hữu với Định Vô Lậu mới được. Con đem cái niệm Ái
Kiết Sử đó đó, con trở thành cái đề tài của Định Vô Lậu, con ngồi quán xét về
Vô Lậu xem cái đường Nhân Quả của Vô lậu như thế nào. Cuối cùng con như con
thấu suốt được cái lý Vô Lậu của cái niệm đó rồi, thì con khỏi cần tác ý nó
cũng đi mất à, con hiểu không? Đó là câu hữu với Định Vô Lậu.
(01:03:04) Nhưng cái Định Vô Lậu, Thầy xin nhắc lại
cái Định Vô Lậu con quán một lần nó chưa thấm nhuần đâu, nó chưa sâu sắc đâu.
Cái đề tài đó con quán một lần rồi, rồi con nghĩ rằng nó sẽ còn tới lui chứ
chưa phải hết, con đưa đề tài đó quán lần nữa, cũng quán y như vậy lặp đi, lặp
lại nhiều lần gọi là Định Vô Lậu.
Một cái niệm đó, tức
là một cái đề tài đó đầu tiên con quán vậy, cuối cùng con quán nữa rồi nó có
thêm bớt gì trong đó cũng tốt không sao hết. Rồi con quán nữa, quán nhiều lần
như vậy, nó thấm nhuần cái niệm đó, thì cái niệm đó nó sẽ không còn có nữa, nó
sẽ diệt đi, nó lui mất đi.
Dùng cái Định Vô Lậu
nó làm cho cái Lậu Hoặc đó không còn nữa gọi là Vô Lậu. Mà nó không phải mình
quán một lần mà nó Vô Lậu được, mà nó nhiều lần. Ví dụ năm lần, ba lần, mười
lần mà thấy cái niệm đó không còn tới nữa là biết nó đã bị diệt rồi, nó đã từ
bỏ rồi. Thì đó là con đã thành công. Chứ đừng nghĩ rằng tôi chỉ tác ý sơ rồi
tôi cứ ôm pháp tôi tập trung trong cái thanh thản này, con bị ức chế đó!
Cho nên đừng ức chế
nó, mà mình đầu tiên thì mình tác ý: “Ái Kiết Sử, đi! Chỗ này không phải chỗ
mày”, mà mình chỉ ra lệnh vậy đó, mà nếu cái đạo lực mình có thì mình tác ý
vậy nó đi mất hà, nó không tới nữa. Nhưng mà nó nhào tới thì mình biết đạo lực
mình chưa đủ. Vậy thì mình phải dùng định Vô Lậu, quét nó bằng Định Vô Lậu,
bằng cái tri kiến, bằng cái sự hiểu biết do đó nó thấm nhuần được, thì nó không
còn. Nó lợi ích như vậy đó con.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét